Chất
lượng của các không gian công cộng (KGCC) hiện giờ theo một phần không nhỏ đến
chất lượng cuộc sống của người thân dân trong thành phố; vì những không gian này
là một trong các thành phần chức năng thiết yếu, quan trọng để đáp ứng nhu cầu
nghỉ ngơi nghỉ ngơi, vui chơi, giải trí, sinh hoạt cộng đồng và tương tác xã
hội.
Tuy
nhiên, so với những thành phần chức năng khác, trong lĩnh vực quy hoạch, thiết
kế nội thất và quản lý đô thị thì KGCC chưa được nghiên cứu, mổ sẻ thấu đáo, và
cũng chưa có những quy chuẩn, tiêu chuẩn kỹ thuật, các hướng dẫn về phương pháp
làm cơ sở cho công tác quy hoạch, nội thất thực tiễn. Có lẽ (một phần) từ những
nguyên nhân trên, mà các KGCC nói chung và không gian vui chơi giải trí trong
các khu dân cư nói riêng ở các đô thị Việt Nam hiện đang thiếu thốn trầm trọng.
Số lượng còn thiếu thốn như vậy thì khoan hãy bàn đến chất lượng của các KGCC.
Các vườn hoa, sân chơi, ví như có, chỉ là những diện tích với vài khuôn cỏ trồng
cây sơ sài, với vài chiếu ghế đã đúc sẵn gẫy chân hoặc mất chỗ tựa, rất là nhạt
nhẽo buồn tẻ thiếu sức sống. Công tác quản lý những KGCC này cũng còn phổ biến
khó khăn và tồn tại, vô cùng nên một hành động thiết thực và cụ thể trong công
tác quy hoạch và quản lý KGCC từ lý luận đến công tác triển khai thực hiện.
Hồ Hoàng Cầu, Hà Nội
KGCC
– tiếp cận từ góc độ chính trị – xã hội
người sử dụng KGCC là một khái niệm phức tạp, đa chiều và
không có một định nghĩa chung, phổ biến toàn cầu về nó. ‘KGCC’ được tạo ra, được
dùng, được gán nghĩa, được quản lý, và được tái sinh do các nhu cầu chính trị –
kinh tế – xã hội của các thể chế xã hội khác nhau, ở tại các không gian và tại
thời gian khác nhau, bị chi phối bởi các hệ thống chính trị, kinh tế và xã hội
khác nhau.
xuất xứ của KGCC, theo cách nhìn của phương Tây, tác động
đến khái niệm ‘quyền tiếp cận và chiếc trừ liên hệ các không gian đó. Trong các
mô hình xã hội dân chủ, nhà nước nhu yếu lập những thể tích mà ở đó mọi người
thân đều có quyền tiếp cận bất luận địa vị xã hội hay điều kiện kinh tế, và
quyền này được bảo vệ bởi hiến pháp và pháp luật. Đó là những khoảng trống thực
thụ là của chung, của hầu hết mọi người – các KGCC. Agora trong cấu trúc đô thị
Hy Lạp cổ đại là ví dụ đầu tiên về loại KGGG này. KGCC vì vậy, có thể coi là một
‘công cụ vật lý’ để nhà nước dân chủ thực hiện trách nhiệm của họ với xã hội và
cũng chuẩn y đó tương tác với xã hội. Đương nhiên, các thể chế xã hội khác nhau,
thuộc các giai đoạn lịch sử khác nhau thì các ‘quyền’ tiếp cận đến các KGCC này
cũng bị giới hạn và quy định theo cách thức và mức độ khác nhau: ai được vào,
vào lúc nào, được phép làm cho gì trong các diện tích đó. Các KGCC thế nên cũng
được thiết kế, gán chức năng, gán nghĩa và quản lý tiếp cận theo bí quyết thức
riêng biệt, tương ứng. Quảng trường nơi diễn ra những sự kiện chính trị, xã hội
quy mô lớn, với nghi thức chuẩn mực, hoành tráng là ví dụ điển hình của loại
KGCC chính thống này. Công viên cũng được xem là một KGCC chính thống để đảm bảo
quyền lợi được nghĩ ngơi nghỉ ngơi, tiếp cận thiên nhiên các các đối tượng xã
hội.
Như vậy, khi tiếp cận khái niệm KGCC từ góc độ thể chế,
một phương pháp tối giản nhất, chúng ta có thể xem KGCC là một đối tượng diện
tích chính quy, thiết yếu trong cấu trúc thể tích đô thị, một dạng ‘cơ sở hạ
tầng’ với hai ý nghĩa: cơ sở hạ tầng chính trị và cơ sở hạ tầng xã hội. CSHT
chính trị (thực hiện chức năng cũng cố sự vận hành của nhà nước và thể chế, là
‘công cụ không gian’ duy trì mối quan hệ tương tác vật lý giữa nhà nước và xã
hội (thông qua các sự kiện chính trị có tổ chức chính thống)) và (hoặc) CSHT xã
hội (thực hiện chức năng đảm bảo các ‘quyền tiếp cận cơ bản) đến các dịch vụ đô
thị của người dân được pháp luật quy định, và thế nên thuộc trách nhiệm của nhà
nước. ở tại khía cạnh vật dụng hai này, nó tương tự nước sạch, y tế, giáo dục …
là những tiện thể ích thiết yếu cơ bản của đời sống người dân mà nhà nước nên
phải chịu trách nhiệm cung ứng.
Việc tạo lập các KGCC chính quy này được thực hiện thông
qua công tác quy hoạch chính thống và được đầu tư, bản lý bởi nhà nước. Theo
nguyên lý quy hoạch của các nước phương Tây, các KGCC này thường được tổ chức
thành hệ thống, có tầng bậc và quy mô, được cung ứng từ cấp độ vùng, đến thành
phố, đến khu vực, đến khu dân cư, và cho đến tận các nhóm nhà. Hai hình thức
nhiều nhất của hệ thống KGCC này là các quảng trường (quy mô khác nhau) và các
công viên vườn hoa (cũng với quy mô khác nhau). Nguyên lý thiết kế nội thất cho
các KGCC này cả về hình thái, thẩm mỹ, công năng đã được đúc kết thành những pho
tri thức quy hoạch và TKĐT kinh điển, được vận dụng …
Lịch sử và sự hình thành các KGCC ở Việt
Nam
Theo dòng lịch sử, các KGCC ở tại Việt Nam đã được hình
thành, quan niệm và gán nghĩa như thế nào?
Thời phong kiến: Vào thời kỳ phong kiến, chính quyền
phong kiến quyết định các vấn đề chung và có diện tích quyền lực của nó. Cộng
đồng như làng xã, phường hội, cái tộc lại chọn về những việc nội bộ của một nhóm
người nên họ cũng có những không gian có chức năng hỗ trợ thể chế cộng đồng
tương ứng. Làng là một mô hình quần tụ truyền thống vô cùng đặc nhan sắc của
Việt Nam. Làng có thiết chế riêng, có hiệu lực mạnh mẽ vì nó đảm bảo tồn tại và
vững mạnh của cả cộng đồng làng; vậy mới có câu “phép vua thua lệ làng”. Trong
làng, trong phường hội, họ được quan tâm, giúp đỡ, bảo vệ và có trách nhiệm So
sánh người khác. Vì thế nhu cầu tỏ ra mình là người cùng hội cùng thuyền, có
quan tâm, đóng góp cho cộng đồng là cấp thiết. vì vậy, những khoảng trống cộng
đồng truyền thống như bến nước, cây đa đầu làng, sân đình, cổng làng, chợ làng,
đường làng, các đình đền đài, hội quán, nhà thờ tổ v.v. đều được tiêu dùng siêu
hiệu quả và thường xuyên. Trong diện tích cộng đồng này, mỗi cá thể xuất hiện ít
khi dưới danh nghĩa cá nhân, mà dưới danh nghĩa là một bộ phận trong một cỗ máy
chung. Họ lấy việc chứng tỏ phục tùng lề luật chung khiến lý do để xuất hiện
trong khoảng trống này. nếu các bạn không tính sẽ được chấp nhận vào các lễ hội,
sự kiện cộng đồng, nhưng họ rõ ràng là khách và phải chấp nhận mọi luật lệ do
chủ nhà đề ra. Tiêu chí của những dung tích này không phải là việc phát huy tối
đa sự tự do thoải mái của từng cá nhân, mà là khiến cho rõ cấu trúc của cái
chúng ta, để người thân phải theo đó mà làm cho. vì vậy, cũng có thể coi những
khoảng trống này là dạng khoảng trống quyền lực, nhưng là một hệ thống quyền lực
khác với hệ thống triều đình, một dạng KGCC chính thống phục vụ thiết chế làng
xã. Hay, là một dạng cơ sở hạ tầng phục vụ cho sự tồn tại của cộng đồng trong
thể chế phong kiến.
Thời Pháp thuộc: Người pháp lần đầu tiên đã đưa vào Việt
Nam nhưng nguyên lý quy hoạch đô thị phương Tây với mạng lưới đường ô cờ vuông
vắn, các trục không gian hoành tráng, những quảng trường trước các công trình
lớn như phủ toàn quyền, ngân hàng, hí viện nhằm phô trương quyền lực và sức mạnh
vật chất – văn hóa của mình. ngoại giả, một số công viên, vườn hoa được xây
dựng, nhằm biểu dương cuộc sống vương giả của khu phố Pháp hơn là những dung
tích công cộng thực thụ. bởi thế những KGCC này chính là những ‘cơ sở hạ tầng’
phục vụ người Pháp và chính quyền thuộc địa của Pháp mà thôi.
Thời kỳ xây dựng nhà nước XHCN: Bên cạnh những KGCC do
người Pháp xây dựng, dòng hình KGCC phổ biến nhất tại nước ta thời kỳ này là các
quảng trường chính trị tại toàn bộ các thị thành, thường bố trí trước mặt tòa
nhà UBND – HĐND, xung quanh là các công trình phục bộ máy hành chính địa phương
như trụ sở các Sở, Ban, Ngành, Tòa án, Bưu điện, Ngân hàng công. ở tại Hà Nội,
có thể nói quảng trường Ba Đình là KGCC biểu tượng quyền lực của Nhà nước XHCN
với sự hiện diện của Lăng Hồ Chủ tịch, Tòa nhà Quốc hội, và các tòa công thự
khác. ở đây Bác Hồ đã đọc bản tuyên ngôn độc lập, và cũng là nơi chỉ dành cho
các sự kiện trọng đại, mitting, diễu hành tầm cỡ quốc gia. Trước đây người dân
không được phép di chuyển vui chơi tự do ở quảng trường Ba Đình và nó đúng nghĩa
là một KGCC của chính quyền. Tuy nhiên gần đây và buổi tối người dân đã được
phép dạo chơi nghỉ ngơi ở tại đây, mặc dù vẫn chịu sử quản lý theo dõi sát sao
của lực lượng canh gác lăng.
Những quảng trường chính trị ở các thị thành khác cũng
tương tự, thường được tạo ra phục vụ các sự kiện đại lễ chính thống do chính
quyền địa phương tổ chức chứ không phát huy như các thể tích phục vụ nhu cầu vui
chơi giải trí tự do của người dân, nên nhìn chung các không gian này thường vắng
yên khô cứng và thiếu sức sống xã hội. nhiều nơi việc tiếp cận không gian uy
nghiêm này bị giảm thiểu bằng hàng rào ngăn cách.
Thời kỳ này một số các khu dân cư mới đã được quy hoạch
và xây dựng theo Kết cấu “tiểu khu” học từ Liên xô (là Kết cấu có sự vi chỉnh từ
Nội tại ‘đơn vị tại’ gốc của Clarence Perry thế kỷ IX). ở tại Hà Nội điển hình
loại này có các khu Trung Tự, Kim liên, Giảng võ, Thanh Xuân. Với nguyên lý quy
hoạch hơi rõ rệt, các KGCC, các công trình công cộng như trường học, nhà trẻ,
sân chơi, vườn hoa thường được bố trí tại trung tâm khu dân cư hoặc tâm của các
nhóm nhà. Mặc dù chất lượng các dung tích này còn nhiều điều đáng bàn, nhưng về
lượng và sự phân bố thì các sân chơi, vườn hoa này được quy hoạch hơi hợp lý và
vẫn phát huy cho đến tận hiện thời. ngoại giả khoảng trống giữa các tòa nhà cũng
đã phát huy thành những KGCC đa năng và siêu quý So sánh đời sống cộng đồng
người dân.
Tuy nhiên, ngoài những khu dân cư được quy hoạch này ra
thì ở mọi các khu vực khác, KGCC như một loại cơ sở hạ tầng cũng đã bị bỏ qua;
sự thiếu thốn các KGCC này cũng tương tự như sự thiếu thốn các cơ sở hạ tầng
khác, như cấp thoát nước, chiếu sáng, thu gom rác thải, rất rộng rãi tại các đô
thị.
Nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa: Sau
đổi mới nền kinh tế từ cơ chế tụ hợp bao cấp sang cơ chế thị trường định hướng
XHCN, các thế lực thị trường đã xuất hiện và tham gia sâu rộng vào sự phát triển
kinh tế – đô thị nói chung và sự nhào nặn nên các KGCC mới nói riêng. Những khu
đô thị mới được đầu tư bởi khu vực tư nhân cung ứng nhà ở tại thương mại ra thị
trường đã xuất hiện và phát triển mạnh mẽ từ cuối những năm 1990 cho liên hệ tận
bây giờ. Những khu ĐTM điển chừng như Định Công, Linh Đàm, Trung Hòa – Nhân
chính, Làng Quốc tế Thăng Long. Đặc điểm chung với những khu ĐTM này là nó đã
được quy hoạch và kiến thiết một phương pháp có bài bản và đồng bộ hơn các tiểu
khu thuộc quá trình trước và hơn các khu dân cư tự hình thành khác trong thành
phố, vì vậy tại đây các KGCC cũng đã được bố trí và đầu tư tại một mức độ nhất
thiết và vươn lên là một phần trong chiến lược thu hút thị trường của các bất
động sản này. Với các Nội tại mới hơn nữa như Royal City, Times City, khi chức
năng ở tại và chức năng thương mại dịch vụ vui chơi giải trí của toàn thành phố
được tích hợp trong những “tiểu thành phố” mang thương hiệu của các tập đoàn thì
KGCC ở những nơi này trở thành một dạng không gian bán công (quasi- public
space) được quản lý bởi khu vực tư nhân, trực tiếp và gián tiếp phục vụ mục tiêu
kinh doanh của tập đoàn.
Khái niệm KGCC trong các cơ sở pháp lý về quy hoạch,
thiết kế và quản lý đô thị ở tại phương Đông
Xem xét trên góc độ quản lý nhà nước, KGCC chưa được
chính thức định nghĩa, đề cập hay quy định cụ thể gì trong hiến pháp, pháp luật
nói chung và các quy chuẩn quy phạm kỹ thuật về quy hoạch kiến trúc nói
riêng.
Quy chuẩn Quy hoạch xây dựng 2008 (hiện đang được điều
chỉnh sửa đổi).
Chương II, Mục 2.3.1. Các khu chức năng đô thị khái
niệm KGCC không được nói đến trực tiếp, nhưng có một câu nói về “Các khu vực
xây dựng các khu cây tím công viên, vườn hoa đô thị” là một trong các
cái ‘khu chức năng’ trong đô thị. Điều này ám chỉ các KGCC, nhưng miêu tả là các
KGCC có tính chất thiên nhiên (cây tím vườn hoa) hơn là các KGCC mang tính chất
xã hội.
Mục 2.4. Quy hoạch các đơn vị ở, trong đó có mục
2.4.1 Yêu cầu đối với quy hoạch các đơn vị ở: có nói đến “Quy hoạch
các đơn vị ở phải đảm bảo cung cấp nhà ở và các dịch vụ thiết
yếu hàng ngày (giáo dục mầm non, giáo dục phổ thông cơ sở, văn hoá
thông tin, chợ, dịch vụ thương mại, thể dục thể thao, không gian dạo
chơi, thư giãn…) của người dân trong bán kính đi bộ không lớn hơn
500m nhằm khuyến khích sử dụng giao thông công cộng và đi bộ”. ở tại
đây, KGCC không được kể đến trực tiếp mà được nhắc đến gián tiếp bằng cụm từ
“không gian dạo chơi, nghỉ ngơi”.
Mục 2.4.2. có quy định “Trong các nhóm nhà ở phải
bố trí vườn hoa, sân chơi với bán kính phục vụ (tính theo đường
tiếp cận thực tế gần nhất) không lớn hơn 300m” và “Đất cây vàng sử
dụng công cộng trong đơn vị ở tối thiểu phải đạt 2m2/người trong đó
đất cây trắng nhóm nhà phải đạt tối thiểu 1m2/người”.
Trong mục 2.5 Quy hoạch hệ thống các công trình
dịch vụ đô thị, KGCC không có trong danh mục các công trình dịch vụ công
cộng (gồm các loại chính là giáo dục, y tế, thể dục thể thao, văn hóa và thương
mại). Và do đó cũng không có quy định về định mức diện tích cho KGCC tại các cấp
độ.
Tuy nhiên, mục 2.6 về Quy hoạch cây đỏ đô thị, có mục
2.6.1 Hệ thống cây đỏ đô thị: lại gộp các chức năng quảng trường, công
viên, vườn hoa, vườn dạo … vào nhóm “Cây xanh sử dụng công cộng”và sau đó được
quy định chỉ tiêu diện tích đầu người cho từng loại đô thị: đô thị đặc biệt trên
7m2/người, đô thị loại V trên 4m2/người.
Như vậy, trong hệ thống quy hoạch chính thống của phương
Đông chưa có khái niệm KGCC; đặc biệt không có sự khẳng định và trình bày rõ rệt
về nguyên lý quy hoạch cho loại KGCC chính thống với tư cách là một hạ tầng
chính trị, mặc dù trên thực tế các quảng trường chính trị vẫn được quy hoạch và
kiến lập khá hoành tráng.
Còn KGCC với tư bí quyết là hạ tầng xã hội thì có được
nhắc đến và có một số yêu cầu quy định sơ sài dưới hình thức của hệ thống không
gian dành cho cây vàng. Có lẽ vì vậy mà các không gian này thường được trồng cỏ
đỏ ở tất cả chỗ hầu hết nơi mà may mắn nó được vẽ ra. Việc thể hiện các KGCC này
trên bản quy hoạch là các không gian xanh, và sau đó được triển khai thực hiện
đúng như vậy, thành các bồn cỏ, vườn hoa, cây vàng, ở tại một góc độ nào đó là
việc xử lý máy móc, phiến diện, và giảm đi phần lớn hiệu quả sử dụng của diện
tích, vì nó không có mấy chức năng phục vụ sinh hoạt xã hội của người dân, ngoài
mục đích tạo cảnh quan và làm mềm hiệu ứng thị giác.
Tuy nhiên, theo loại lịch sử, các chiếc KGCC đã xuất hiện
tại phương Đông do những Vì sao chính trị xã hội và kinh tế, một cách vô thức
hay hữu thức cho dù một cuộc nhận mặt bài bản về mặt lý luận về khái niệm này
chưa bao giờ được đưa ra một bí quyết chính thức. So với phương Tây, việc sử
dụng KGCC như một “công cụ” tương tác giữa nhà nước và xã hội, hay quan niệm đầy
đủ về nó như một cái cơ sở hạ tầng xã hội, một ‘hàng hóa công’ cũng chưa đích
thực rõ ràng.
dung tích công cộng trong khu ĐTM, Hà
Nội
KGCC là một “sân khấu” của đời sống xã hội – tiếp cận
từ góc độ xã hội
Khác với cách tiếp cận về KGCC từ góc độ thể chế, KGCC
tiếp cận từ góc độ xã hội được xem là các dung tích cho phép thoả mãn nhu cầu
tương tác, chia sẻ, gặp gỡ, giải trí, tìm kiếm sự nghỉ ngơi thoả thích của các
cá thể trong xã hội trong sự hoà mình vào xã hội. Sự tụ tập ở tại đây là do các
cá thể tự nguyện đến và gặp nhau. Các KGCC này có thể nhận bất cứ hình thức gì,
nó có thể là một công viên, một quán trà hoặc café dân dã hay thậm chí là một
vỉa hè, một khoảng trống giữa các công trình và không liên quan đến hình thức sở
hữu cũng như hình hài của khoảng trống đó. tại đây, vấn đề không hề là ‘quyền’
mà là ‘sự thỏa mãn’ nhu cầu của gia đình. Với loại KGCC này, yếu tố ‘xã hội’ trở
thành cốt tủy của không gian: là môi trường cho các sinh hoạt, tương tác của đời
sống xã hội được diễn ra. Những KGCC có tính chất này có thể gọi là các dung
tích dân sự, hay không gian xã hội, hay các KGCC phi chính quy để phân biệt với
các KGCC chính quy theo nghĩa ‘cơ sở hạ tầng’như trong phương pháp tiếp cận thể
chế tại trên. Việc phát triển các KGCC diện tích công cộng loại này không bắt
buộc theo pháp luật, nhưng rất đáng khuyến khích vì nó làm tăng sức sống, độ hấp
dẫn của đô thị.
‘Đời sống xã hội’ là phần quan trọng nhất của KGCC cái
này, bởi vậy việc quy hoạch và thiết kế những KGCC này không đơn giản là đảm bảo
chỉ tiêu diện tích và tạo hình 3D cho không gian mà phải tạo ra một môi trường
cho đời sống xã hội thực sự diễn ra.
KGCC có tiềm năng đặc biệt trong việc thỏa mãn nhu cầu
giao lưu chia sẻ của con người trong xã hội, nhu cầu thuộc về. giả dụ trẻ con có
thể chơi đùa với nhau, trường hợp người lớn cho chỗ ngồi quan sát trẻ em chơi và
trò chuyện, ví như thanh niên có chỗ đá bóng và đá cầu, người già có chỗ chơi
cờ, đi dạo, ngồi thư giãn ngắm cảnh, ví như chị em phụ nữ có không gian tập thể
dục nhịp điệu, các nhóm trung niên có thể tập thái cực quyền hay khiêu vũ trong
KGCC ở các khu dân cư thì chắc chắn mối quan hệ cộng đồng ở khu dân cư sẽ rất
gắn bó, khăng khít, và bản thân họ sẽ rất gắn bó với KGCC đó. Cảm giác thuộc về
cộng đồng ấy, nơi chốn ấy sẽ dần được hình thành.
ở phương Tây khi thiết kế các KGCC người ta luôn tạo cơ
hội cho người sử dụng chủ động bộc lộ mình: những thể tích thách thức cho những
ai ưa mạo hiểm, những không gian tương tác với nước cho trẻ thơ, nhưng bề mặt
được phép grafiti cho những người yêu hội họa đại chúng, các không gian cho phép
các nghệ sĩ đường phố biểu diễn và cho phép anh em thưởng thức … tất cả là nhằm
tạo điều kiện cho người sử dụng “trình bày” mình, thỏa mãn nhu cầu cao nhất là
được “thể hiện” người sử dụng (tầng nhu cầu thứ 5) và nhận được sự tán dương,
ngưỡng vọng từ người khác (tầng nhu cầu đồ vật 4). Trong phương pháp thiết kế
KGCC ở tại phương Tây, việc tạo cơ hội và lôi kéo người sử dụng hoạt động (tham
gia chủ động) và cơ hội quan sát, theo dõi (tham gia thụ động) được đặc biệt chú
trọng. vì vậy, các giải pháp nội thất thường là phức hợp, đa năng, linh hoạt:
các bậc cấp vừa sẽ là chỗ ngồi vừa có thể là lối đi lên xuống. Các khoảng trống
không bao giờ chỉ là đơn năng mà luôn được tính đến yếu tố đa tính năng.
Những khoảng trống giữa lý luận và thực
tiễn
Có phần lớn bài học có thể được rút để thu gọn những
khoảng trống lớn giữa công tác lý luận về KGCC trên ngôi nhà và ở phương Đông,
giữa công tác lý luận và công tác thực hành quy hoạch – thiết kế không gian,
giữa thiết bị khoảng trống thực thể và sinh hoạt xã hội trong dung
tích.
Do có nhiều cách tiếp cận khái niệm KGCC, và khái niệm
này liên tục được định nghĩa và tái định nghĩa dưới nhiều góc độ. Mỗi xã hội có
cách nhìn nhận, tái sinh và dùng KGCC theo những phương pháp rất khác nhau, nên
việc tổ chức, thiết kế, tạo dựng KGCC thế nên không đơn giản và không thể theo
khuôn mẫu. tại phương Đông, thứ nhất, cần có những nghiên cứu sâu hơn và toàn
diện hơn về KGCC từ các bí quyết tiếp cận khác nhau: chính trị, kinh tế, xã hội,
văn hóa để cung cấp các cơ sở lý thuyết cho công tác quy hoạch và thiết kế thực
tiễn.
ở cấp độ tổng thể:
Trong hệ thống quy hoạch đô thị chính quy, cần xác định
và củng cố vai trò của hệ thống KGCC chính quy như một mẫu cơ sở hạ tầng chính
trị – xã hội thiết yếu, có chỉ tiêu và nguyên lý thiết kế ăn nhập, và các các
chiếc và KGCC phi chính quy nhằm đảm bảo yếu tố đầu tiên là “lượng” So sánh
KGCC. cần lưu ý: không gian cây trắng là KGCC nhưng KGCC không chỉ là không gian
cây tím, vườn hoa, mặt nước. vì vậy cần thoát ly khỏi nếp tư duy hẹp trong quy
hoạch và nội thất KGCC ở tại Việt Nam: cứ KGCC là tô màu trắng và khi xây nên
thì thành các ô trồng cỏ không mấy tác dụng.
Chúng ta có thể biến KGCC và hệ thống KGCC phát triển
thành một bộ phận không thể thiếu, tạo thành bản sắc đẹp của đô thị. Khi đó,
chúng sẽ được bảo tồn cho toàn bộ mọi người bởi tất cả người thân. Hướng đi này
mở ra xu hướng nghiên cứu rất rộng, đa ngành và linh hoạt về dung tích công
cộng. Điều quan trọng nhất là phải nắm được cái thần, cái tổng thể của cả đô thị
chứ không bị chia xẻ vụn vặt ra thành những không gian rời rạc.
ở cấp độ cụ thể
Để cải thiện “chất lượng” KGCC và xóa bỏ những bất hợp lý
trong các KGCC, để KGCC phục vụ tốt nhất cho xã hội, cần có một sự thay đổi tư
duy thiết kế nội thất, lấy việc nghiên cứu phân tích điều tra nhu cầu đa dạng
của các nhóm gia đình không gian và các sinh hoạt của họ trong diện tích khiến
cho cơ sở thiết kế. Việc thiết kế nội thất cũng nên thỏa mãn các nhu cầu cơ bản
và các nhu cầu bậc cao của con người.
KGCC không chỉ là những không gian vật chất cố định
với các chức năng cụ thể được thiết kế nội thất có chủ đích, mà còn là diện
tích do gia đình tạo ra (Koh 2007). Trên không gian cũng đang có một cuộc cách
mạng trong tư duy và bí quyết tiếp cận vấn đề để khai phá tính xã hội, sinh
động, linh hoạt, bền vững…trong thể tích đô thị. vì thế chúng ta buộc phải thay
đổi tư duy từ thiết kế khoảng trống sang tạo lập nơi chốn (place-making). Khi
đó, nguồn lực cho KGCC không chỉ đợi mong ở nhà nước mà có thể huy động ý tưởng,
tài chính, vật tư và công sức của cộng đồng cùng với trách nhiệm và sự gắn bó
của họ với không gian nữa, đó chính là cơ sở để hình thành nên các “nơi
chốn”./.